Chốt phiên giao dịch ngày 4/5, giá dầu diễn biến trái chiều, vàng đạt mức cao kỷ lục, quặng sắt cao nhất 5 tháng, trong khi khí tự nhiên, thép cây và gạo... đều giảm.
Giá dầu diễn biến trái chiều
Giá dầu diễn biến trái chiều sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) quyết định giảm tốc độ tăng lãi suất, song giá dầu vẫn giảm hơn 9% trong tuần do lo ngại nhu cầu tại các nước tiêu thụ lớn.
Chốt phiên giao dịch ngày 4/5, dầu thô Brent tăng 17 US cent tương đương 0,24% lên 72,5USD/thùng. Trong khi, dầu thô Tây Texas WTI giảm 4 US cent tương đương 0,06% xuống 68,56 USD/thùng, trong đầu phiên giao dịch giá dầu WTI giảm xuống 63,64 USD/thùng – thấp nhất kể từ tháng 12/2021.
Giá dầu trong tuần này giảm sau lo ngại về nền kinh tế Mỹ và các dấu hiệu tăng trưởng sản xuất suy yếu tại nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới – Trung Quốc - và giảm hơn nữa sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất.
Giá khí tự nhiên thấp nhất 3 tuần
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 3% xuống mức thấp nhất 3 tuần, do sản lượng đạt mức cao kỷ lục, bất chấp tồn trữ trong tuần trước thấp hơn so với dự kiến, bởi thời tiết lạnh thúc đẩy nhu cầu sưởi ấm tăng cao và dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới cao hơn so với dự kiến trước đó, khi lượng khí đốt đến các nhà máy xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tăng.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York giảm 6,9 US cent tương đương 3,2% xuống 2,101 USD/mmBTU – thấp nhất kể từ ngày 13/4/2023. Đây là phiên giảm thứ 4 liên tiếp – lần đầu tiên – kể từ cuối tháng 2/2023.
Giá vàng tăng cao kỷ lục
Giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục, do mối lo ngại về ngân hàng Mỹ đã thúc đẩy nhu cầu vàng thỏi là tài sản trú ẩn an toàn.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,3% lên 2.045,79 USD/ounce, sau khi tăng lên 2.072,19 USD/ounce trong đầu phiên giao dịch và đạt mức cao kỷ lục 2.072,49 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York tăng 0,9% lên 2.055,7 USD/ounce.
Kinh tế bất ổn và lãi suất thấp thúc đẩy nhu cầu vàng thỏi không lãi suất.
Giá đồng tăng, nhôm thấp nhất 6 tuần
Giá đồng tăng, sau khi ngân hàng trung ương Mỹ phát tín hiệu ngừng tăng lãi suất, song mức tăng bị hạn chế do đồng USD tăng và các nhà đầu tư lo ngại về nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,4% lên 8.501 USD/tấn, rời khỏi chuỗi giảm 2 phiên liên tiếp.
Tuy nhiên, tính đến nay giá đồng giảm 10% kể từ mức cao nhất 7 tháng trong tháng 1/2023, giá đồng chịu áp lực giảm bởi nhu cầu tại Trung Quốc chậm lại và lo ngại về sức khỏe nền kinh tế toàn cầu.
Hoạt động nhà máy của Trung Quốc bất ngờ giảm trong tháng 4/2023, do các đơn hàng và nhu cầu nội địa giảm, kéo lĩnh vực sản xuất suy yếu – nơi sử dụng một lượng lớn kim loại.
Các nhà phân tích thuộc Citi giảm dự báo giá đồng xuống 8.000 USD/tấn từ mức 8.500 USD/tấn dự báo trước đó.
Giá nhôm trên sàn London giảm 1,1% xuống 2.295,5 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 6 tuần trong đầu phiên giao dịch.
Giá quặng sắt thấp nhất 5 tháng, thép cây giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên và Singapore chạm mức thấp nhất 5 tháng, sau khi giảm hơn 10% trong tháng trước đó, do số liệu hoạt động nhà máy của Trung Quốc thấp hơn so với dự kiến và triển vọng nhu cầu hạ nguồn trong ngắn hạn ảm đạm gây áp lực thị trường.
Chỉ số quản lý mua hàng sản xuất toàn cầu (PMI) của Caixin/S&P trong tháng 4/2023 giảm xuống 49,5 so với 50 tháng trước đó, thấp hơn kỳ vọng 50,3 trong cuộc thăm dò của Reuters và đánh dấu tháng giảm đầu tiên kể từ tháng 1/2023.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 2,31% xuống 698,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 9/12/2022 sau khi giảm 13% trong tháng 4/2023.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore chạm mức thấp nhất 5 tháng (99,2 USD/tấn), sau khi giảm gần 18% trong tháng trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,85% xuống 3.615 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 2,01% và thép cuộn giảm 1,06%, trong khi thép không gỉ tăng 1,74%.
Giá cà phê không thay đổi tại Việt Nam và Indonesia, giảm tại New York và London
Giá cà phê tại Việt Nam tăng do nguồn cung thắt chặt, trong khi hoạt động giao dịch tại Indonesia diễn ra chậm chạp sau kỳ nghỉ lễ Eid Al-Fitr.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 120-130 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London, không thay đổi so với 1 tuần trước đó. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 50.800-52.800 VND (2,17-2,25 USD)/kg, tăng so với 50.500-52.200 VND/kg 1 tuần trước đó.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2023 tăng 1,8% so với cùng kỳ năm ngoái lên 753.000 tấn, tương đương 12,5 triệu bao (60 kg).
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 40 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London, không thay đổi so với cách đây 1 tuần.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 2,55 US cent tương đương 1,4% xuống 1,8295 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 10/4/2023 (1,811 USD/lb).
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 12 USD tương đương 0,5% xuống 2.412 USD/tấn.
Giá đường diễn biến trái chiều
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,35 US cent tương đương 1,4% lên 25,52 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 11,5 năm trong tuần trước đó.
Giá đường tăng được hỗ trợ bởi nguồn cung thắt chặt. Citi dự báo giá đường trung bình trong năm nay sẽ ở mức 22,9 US cent/lb, do thị trường đường trong năm 2022/23 và có thể năm 2023/24 vẫn thiếu hụt.
Trong khi, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 10,2 USD tương đương 1,5% xuống 697,8 USD/tấn.
Giá lúa mì cao nhất 1 tuần, ngô và đậu tương tăng
Giá lúa mì trên sàn Chicago đạt mức cao nhất 1 tuần, khi các nhà đầu tư thận trọng theo dõi diễn biến phát triển hành lang ngũ cốc khu vực Biển Đen, sau làn sóng căng thẳng mới giữa Nga và Ukraine.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 5-1/4 US cent lên 6,45 USD/bushel, sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 26/4/2023 (6,5-3/4 USD/bushel). Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 1/2 US cent lên 5,89 USD/bushel và giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 1/4 US cent lên 14,17-3/4 USD/bushel.
Giá gạo đồng loạt giảm tại Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam
Giá gạo xuất khẩu từ trung tâm hàng đầu - Ấn Độ - giảm tuần thứ 3 liên tiếp, do nhu cầu giảm, trong khi giá gạo của Việt Nam giảm từ mức cao nhất 2 năm trong phiên giao dịch trầm lắng sau kỳ nghỉ kéo dài.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 376-380 USD/tấn, giảm so với 378-382 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống 485 USD/tấn. Giá gạo đã tăng lên mức cao nhất 2 tháng (490-495 USD/tấn) cách đây 1 tuần, được thúc đẩy bởi nhu cầu từ Indonesia và nguồn cung nội địa giảm khi vụ thu hoạch sắp kết thúc.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 485-495 USD/tấn, giảm so với 495-500 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 5 /5
NGUỒN: MXV