Chốt phiên giao dịch ngày 30/8, giá dầu, khí tự nhiên, đồng, sắt thép, cao su và cà phê... đồng loạt tăng, vàng và bạc cao nhất gần 1 tháng, chì cao nhất 7 tháng, đường trắng cao nhất 12 năm.
Giá dầu tiếp đà tăng
Giá dầu tăng do nguồn cung dầu thô thắt chặt hơn dự kiến, song lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc đã hạn chế đà tăng.
Chốt phiên giao dịch ngày 30/8, dầu thô Brent tăng 37 US cent lên 85,86 USD/thùng và dầu thô Brent kỳ hạn tháng 11/2023 tăng 33 US cent lên 85,21 USD/thùng, dầu thô Tây Texas WTI tăng 47 US cent lên 81,63 USD/thùng.
Trong phiên trước đó, cả hai loại dầu đều tăng hơn 1 USD/thùng, do đồng USD suy yếu sau số liệu việc làm suy giảm, làm giảm khả năng tăng lãi suất tiếp theo.
Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết, tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm 10,6 triệu thùng xuống 422,9 triệu thùng, trong khi các nhà phân tích dự kiến tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm 3,3 triệu thùng.
Giá khí tự nhiên tăng 5%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng hơn 5%, do dự báo thời tiết nóng hơn, trong khi các thương nhân đánh giá tác động từ cơn bão Idalia có thể khiến nhu cầu nhiên liệu giảm.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn New York tăng 24 US cent tương đương 9,4% xuống 2,796 USD/mmBTU.
Giá vàng và bạc cao nhất gần 1 tháng, bạch kim cao nhất hơn 1 tháng
Giá vàng tăng lên mức cao nhất gần 1 tháng, khi 1 loạt số liệu kinh tế yếu kém mới của Mỹ củng cố quan điểm rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tạm dừng tăng lãi suất.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,4% lên 1.943,92 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 2/8/2023 trong đầu phiên giao dịch và vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York tăng 0,4% lên 1.973 USD/ounce.
Ngoài ra, giá vàng tăng do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 11/8/2023, cùng với đó là đồng USD giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, sau số liệu GDP của Mỹ cho thấy rằng nền kinh tế trong quý 2/2023 suy giảm.
Trong khi đó, giá bạc giảm 0,4% xuống 24,63 USD/ounce, song vẫn gần mức cao nhất 1 tháng.
Giá bạch kim duy trì vững ở mức 976,05 USD/ounce – gần mức cao nhất kể từ ngày 19/7/2023.
Giá đồng tiếp đà tăng, chì cao nhất 7 tháng
Giá đồng tăng, sau khi đồng USD giảm do số liệu kinh tế Mỹ yếu hơn và các biện pháp mới nhằm hỗ trợ lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn của Trung Quốc.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,3% lên 8.475 USD/tấn, sau khi tăng 1,1% trong phiên trước đó.
Giá đồng trên sàn London đảo chiều tăng sau khi tăng trưởng kinh tế trong quý 2/2023 của Mỹ được điều chỉnh giảm và bảng lương tư nhân của Mỹ trong tháng 8/2023 tăng ít hơn dự kiến. Các báo cáo làm giảm kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tăng lãi suất tại cuộc họp chính sách trong tháng 11/2023 hoặc tháng 12/2023.
Các số liệu này đã gây áp lực đối với đồng USD, khiến chỉ số đồng USD giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, điều này đã làm cho hàng hóa được định giá bằng đồng USD trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Trong khi đó, giá chì trên sàn London giảm 0,5% xuống 2.180,5 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 7 tháng (2.213 USD/tấn).
Giá quặng sắt và thép cây tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, khi các nhà đầu tư phấn khích bởi triển vọng các biện pháp mới từ Trung Quốc, nhằm hỗ trợ lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1,97% lên 829 CNY (113,68 USD)/tấn, gần với mức cao nhất hơn 3 tuần (834 CNY/tấn) đạt được trong ngày 28/8/2023.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Singapore tăng 1,76% lên 114,15 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,95% lên 3.713 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,39% và thép cuộn tăng 1,64%, trong khi thép không gỉ giảm 0,1%.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, do thuế quan và tồn trữ tại Trung Quốc giảm đẩy giá tăng, cùng với đó là đồng JPY suy yếu cũng hỗ trợ thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Osaka tăng 1 JPY tương đương 0,5% lên 213,2 JPY (1,46 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 110 CNY lên 13.305 CNY (1.824,43 USD)/tấn.
Đồng JPY giảm 0,29% so với đồng USD, song vẫn dao động gần mức thấp nhất 9 tháng. Đồng JPY suy yếu, khiến hàng hóa định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Singapore tăng 0,9% lên 136 US cent/kg.
Giá cà phê tiếp đà tăng
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London tăng 1,9% lên 2.496 USD/tấn.
Đồng thời, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 1,5% lên 1,5535 USD/lb.
Giá đường trắng cao nhất 12 năm
Giá đường trắng trên sàn London tăng lên mức cao nhất 12 năm, được thúc đẩy bởi triển vọng nguồn cung thắt chặt, do thời tiết khô đe dọa sản lượng mía đường tại Ấn Độ và Thái Lan và một số nước cấm xuất khẩu.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn London tăng 5,1 USD tương đương 0,7% lên 730 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 12 năm (740,2 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Trong khi đó, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 25,34 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tháng (25,9 US cent/lb) trong đầu phiên giao dịch.
Giá đậu tương và ngô giảm, lúa mì tăng
Giá đậu tương trên sàn Chicago giảm phiên thứ 2 liên tiếp, do các thương nhân đứng ngoài thị trường. Trong khi đó, giá lúa mì tăng được hỗ trợ bởi nhu cầu toàn cầu tăng và lo ngại về sản lượng lúa mì tại Canada suy giảm.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương giảm 5-3/4 US cent xuống 13,86-3/4 USD/bushel. Giá lúa mì tăng 6-1/2 US cent lên 6,07 USD/bushel, trong khi giá ngô giảm 6 US cent xuống 4,8-3/4 USD/bushel.
Sản lượng lúa mì tại Canada năm 2023 giảm 14,2% so với năm 2022.
Giá dầu cọ tiếp đà tăng
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, do thời tiết ấm đe dọa nguồn cung dầu cọ và các loại dầu thực vật khác tại châu Á, trong bối cảnh nhu cầu trong mùa lễ hội tại Ấn Độ tăng.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 80 ringgit tương đương 2,04% lên 4.010 ringgit (864,78 USD)/tấn – tăng phiên thứ 2 liên tiếp.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 31/8