Chốt phiên giao dịch ngày 22/5, giá dầu tăng 1%, cà phê robusta cao nhất 12 năm, trong khi khí tự nhiên, vàng, đồng, kẽm, sắt thép và cao su... đồng loạt giảm.
Giá dầu tăng 1%
Giá dầu tăng 1% cùng với giá xăng tại Mỹ tăng và dự báo nhu cầu dầu trong nửa cuối năm 2023 tăng, trong khi nguồn cung từ Canada và OPEC+ mấy tuần gần đây giảm. Tuy nhiên, giá dầu được kiểm soát bởi đồng USD tăng và thị trường chờ đợi thông tin về các cuộc đàm phán trần nợ của Mỹ.
Chốt phiên giao dịch ngày 22/5, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 41 US cent tương đương 0,5% lên 75,99USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI kỳ hạn tháng 6/2023 tăng 44 US cent tương đương 0,6% lên 71,99 USD/thùng, trong khi giá dầu WTI kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 0,5% lên 72,05 USD/thùng.
Tuần trước, cả hai loại dầu đều tăng 2% - tuần tăng đầu tiên trong 5 tuần, sau khi các vụ cháy rừng làm gián đoạn nguồn cung dầu thô khố lượng lớn tại Alberta, Canada.
Giá xăng tại Mỹ tăng 2,8% lên mức cao nhất 1 tháng (2,6489 USD/gallon).
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cảnh báo về tình trạng thiếu hụt dầu trong nửa cuối năm nay khi nhu cầu dự kiến vượt cung khoảng gần 2 triệu thùng/ngày (bpd).
Một giám đốc điều hành cấp cao tại Vitol cho biết, châu Á sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng nhu cầu dầu khoảng 2 triệu bpd trong nửa cuối năm nay, mức tăng có thể dẫn đến khả năng thiếu hụt nguồn cung và đẩy giá tăng cao.
Giá khí tự nhiên giảm 7%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 7%, do các thương nhân bán ra kiếm lời sau khi giá khí tự nhiên trong tuần trước tăng 14%, sản lượng tăng và dự báo nhu cầu trong tuần tới ít hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York giảm 18,5 US cent tương đương 7,2% xuống 2,4 USD/mmBTU. Đây là phiên giảm mạnh nhất kể từ khi giảm 8% vào cuối tháng 4/2023.
Giá vàng giảm
Giá vàng giảm, do những bình luận từ 2 quan chức của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ gây áp lực lên vàng thỏi không mang lại lãi suất, trong khi thị trường tìm kiếm sự rõ ràng hơn xung quanh các cuộc đàm phán trần nợ của Mỹ.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,1% xuống 1.974,9 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York giảm 0,2% xuống 1.977,1 USD/ounce.
Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy thảo luận về trần nợ vào thứ hai (22/5/2023), điều này sẽ được theo dõi chặt chẽ để xem liệu có đạt được giải pháp hay không, sau khi cuộc đàm phán kết thúc vào thứ sáu (26/5/2023).
Giá đồng và kẽm giảm
Giá đồng giảm, khi thị trường tập trung vào nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu- Trung Quốc – giảm, nguồn cung tăng và tồn trữ tại London tăng.
Giá đồng trên sàn London giảm 1,3% xuống 8.144,5 USD/tấn. Giá đồng giảm xuống dưới mức trung bình 200 ngày hôm 11/5/2023 và kể từ đó giao dịch trong biên độ hẹp.
Giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2% xuống 2.428,5 USD/tấn. Giá kẽm giảm xuống mức thấp nhất 2,5 năm (2.425 USD/tấn). Tính chung trong 4 tháng qua, giá kẽm giảm tổng cộng 30%.
Giá quặng sắt và thép giảm
Giá thép và các nguyên liệu sản xuất thép bao gồm quặng sắt đều giảm, do lo ngại về lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc suy giảm kéo dài.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 2,7% xuống 716 CNY (103,59 USD)/tấn.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 3,4% xuống 101,8 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 15/5/2023.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 2,4%, thép cuộn cán nóng giảm 2,2%, thép cuộn giảm 2,3% và thép không gỉ giảm 0,3%.
Giá cao su giảm
Giá cao su tại Nhật Bản có phiên giảm mạnh nhất trong 1 tháng, do các đơn đặt hàng máy móc cốt lõi giảm gây ra mối hoài nghi về sự phục hồi, cùng với đó là giá dầu thô giảm cũng gây áp lực thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Osaka giảm 3 JPY tương đương 1,41% xuống 209,7 JPY (1,55 USD)/kg và có phiên giảm mạnh nhất kể từ ngày 27/4/2023.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 5 CNY lên 12.175 CNY (1.761,4 USD)/tấn.
Các đơn đặt hàng máy móc cốt lõi của Nhật Bản giảm tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 3/2023, điều này cho thấy các công ty thận trọng về chi tiêu vốn trong bối cảnh lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 135,8 US cent/kg.
Giá cà phê robusta cao nhất 12 năm
Giá cà phê robusta trên sàn London tăng lên mức cao nhất 12 năm, do nguồn cung thắt chặt được thúc đẩy bởi nhu cầu tăng mạnh, trong khi giá cà phê arabica giảm.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 41 USD tương đương 1,6% lên 2.629 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 12 năm (2.641 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Trong khi đó, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 2,8 US cent tương đương 1,5% xuống 1,892 USD/lb.
Giá đường tăng
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,21 US cent tương đương 0,8% lên 25,99 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 2,9 USD tương đương 0,4% lên 712,9 USD/tấn.
Tổ chức Đường Quốc tế (ISO) công bố thặng dư nguồn cung đường toàn cầu năm 2022/23 (từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023) giảm mạnh xuống 850.000 tấn từ mức 4,15 triệu tấn trong báo cáo hàng quý trước đó. Việc cắt giảm dự báo một phần do điều chỉnh giảm sản lượng tại Ấn Độ (32,8 triệu tấn từ mức 34,3 triệu tấn) và Thái Lan (xuống 11 triệu tấn từ mức 12,3 triệu tấn), mặc dù ISO chuyển tập trung sang nước xuất khẩu hàng đầu – Brazil.
Giá lúa mì, ngô và đậu tương tăng
Giá đậu tương và ngô tại Mỹ tăng và giá lúa mì cũng tăng, do hoạt động mua vào kiếm lời sau khi nguồn cung toàn cầu giảm.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 1-1/4 US cent lên 6,06-1/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 34 US cent lên 13,41-1/4 USD/bushel và giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 16-1/2 US cent lên 5,71 USD/bushel. Giá ngô đã tăng 3% - phiên tăng mạnh nhất trong 9 tháng và giá đậu tương tăng 2,6% - phiên tăng mạnh nhất kể từ ngày 12/9/2023.
Giá dầu cọ giảm
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 5 liên tiếp trong 6 phiên, do nhu cầu giảm, sản lượng tăng và giá dầu thực vật khác giảm gây áp lực thị trường.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Bursa Malaysia giảm 53 ringgit tương đương 1,52% xuống 3.428 ringgit (772,94 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 23/5: