Thị trường ngày 13/9: Giá dầu thô Mỹ tăng hơn 2%, vàng đạt mức cao kỷ lục
Tác giảHải Bùi

Chốt phiên giao dịch ngày 12/9, giá dầu thô Mỹ tăng hơn 2%, vàng đạt mức cao kỷ lục, palađi cao nhất hơn 2 tháng.

Giá dầu thô Mỹ tăng hơn 2%

Giá dầu tăng hơn 2%, khi các nhà sản xuất đánh giá lại tác động đến sản xuất tại vịnh Mexico Mỹ sau cơn bão Francine đổ bộ vào khu vực sản xuất dầu ngoài khơi, trước khi suy yếu thành bão nhiệt đới.

Chốt phiên giao dịch ngày 12/9, dầu thô Brent tăng 1,36 USD tương đương 1,9% lên 71,97 USD/thùng và dầu WTI tăng 1,66 USD tương đương 2,5% lên 68,97 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều tăng hơn 2%.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2024 thêm hơn 7% xuống còn 900.000 thùng/ngày (bpd), do nhu cầu của Trung Quốc và các khu vực khác suy giảm.

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng gần 5%

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng gần 5%, do tồn trữ trong tuần trước thấp hơn so với dự kiến, trong khi các thương nhân đánh giá lại tác động đối với nguồn cung, sau khi các nhà sản xuất dầu khí cắt giảm sản lượng do bão Francine.

Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn New York tăng 8,7 US cent tương đương 3,8% lên 2,357 USD/mmBTU. Trong đầu phiên giao dịch, giá khí tự nhiên tăng gần 5%.

Giá vàng đạt mức cao kỷ lục, palađi cao nhất hơn 2 tháng, bạch kim cao nhất gần 2 tháng

Giá vàng tăng hơn 1% lên mức cao kỷ lục, khi các nhà đầu tư kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tuần tới, sau số liệu của Mỹ cho thấy nền kinh tế đang chậm lại.

Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 1,7% lên 2.554,05 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn New York tăng 1,5% lên 2.580,6 USD/ounce.

Bộ Lao động Mỹ cho biết, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu của tiểu bang đã tăng 2.000 lên mức điều chỉnh theo mùa là 230.000.

Đồng thời, giá sản xuất của Mỹ trong tháng 8/2024 tăng hơn so với dự kiến, trong bối cảnh chi phí dịch vụ tăng cao, song xu hướng này vẫn phù hợp với lạm phát suy giảm.

Đồng thời, giá palađi tăng 4,1% lên 1.050 USD/ounce – cao nhất hơn 2 tháng.

Giá bạch kim tăng 3% lên 979,62 USD/ounce – cao nhất gần 2 tháng.

Giá đồng, nhôm và kẽm đồng loạt cao nhất gần 2 tuần

Giá đồng tăng lên mức cao nhất gần 2 tuần, do các dấu hiệu nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc – tăng và triển vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất.

Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,4% lên 9.215 USD/tấn, sau khi đạt 9.294,5 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 30/8/2024.

Tồn trữ đồng tại Thượng Hải trong hơn 3 tháng qua giảm 36% xuống 215.374 tấn – thấp nhất kể từ tháng 3/2024.

Giá đồng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 1,5% lên 73.830 CNY (10.363,85 USD)/tấn.

Trên sàn London, giá nhôm tăng 1,8% lên 2.412 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 3/9/2024. Giá kẽm tăng 3,2% lên 2.858,5 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 2/9/2024.

Giá quặng sắt cao nhất hơn 1 tuần, thép tăng

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất hơn 1 tuần, do triển vọng nhu cầu mùa vụ tại Trung Quốc được cải thiện, làm lu mờ lo ngại về nền kinh tế nước tiêu thụ hàng đầu hồi phục.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên tăng 3,97% lên 707 CNY (99,25 USD)/tấn. Trong phiên có lúc giá quặng sắt đạt 709 CNY/tấn – cao nhất kể từ ngày 3/9/2024.

Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Singapore tăng 1,95% lên 94,55 USD/tấn.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cuộn cán nóng tăng 3,44%, thép cây tăng 3,1%, thép cuộn tăng 1,87% và thép không gỉ tăng 1,75%.

Giá cao su tại Nhật Bản cao nhất hơn 1 tuần

Giá cao su tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất hơn 1 tuần, được hỗ trợ bởi giá dầu tăng và điều kiện thời tiết ẩm ướt ở khắp các khu vực sản xuất cao su toàn cầu.

Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 12,3 JPY tương đương 3,49% lên 365 JPY (2,56 USD)/kg – cao nhất kể từ ngày 3/9/2024.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 270 CNY tương đương 1,6% lên 17.045 CNY(2.393,66 USD)/tấn.

Giá cao su butadiene kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 390 CNY tương đương 2,6% lên 15.375 CNY (2.159,14 USD)/tấn.

Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Singapore tăng 1,7% lên 185,2 US cent/kg.

Giá cà phê đồng loạt tăng tại Việt Nam, Indonesia, London và New York

Giá cà phê tại thị trường Việt Nam tăng nhẹ, khi mùa vụ cà phê ở Tây Nguyên không bị ảnh hưởng bởi cơn bão Yagi, trong khi giao dịch dự kiến sẽ vẫn ở mức thấp cho đến tận vụ thu hoạch mới vào tháng tới.

Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London và mức trừ lùi 30-50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 121.000-121.500 VND (4,93-4,95 USD)/kg, tăng so với 119.000 – 120.500 VND/kg 1 tuần trước đó.

Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2024 đạt 1,056 triệu tấn, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 280 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London, tăng so với mức cộng 220 USD/tấn hợp đồng kỳ hạn tháng 9-10/2024 trên sàn London một tuần trước đó.

Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 69 USD tương đương 1,4% lên 5.077 USD/tấn – hướng tới mức cao đỉnh điểm (5.180 USD/tấn) trong phiên ngày 30/8/2024.

Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1,1% lên 2,494 USD/lb.

Giá đường tiếp đà tăng

Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE tăng 0,34 US cent tương đương 1,8% lên 19,07 US cent/lb.

Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London tăng 2,1% lên 540,1 USD/tấn.

Giá ngô và đậu tương tăng, lúa mì giảm

Giá ngô trên sàn Chicago tăng từ mức thấp nhất gần 2 tuần, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) nâng ước tính về sản lượng ngô tại nước này.

Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1-1/4 US cent lên 4,06 USD/bushel, sau khi giảm xuống 3,97 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 30/8/2024. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 3/4 US cent xuống 5,78-1/2 USD/bushel, trong khi giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 10-1/4 US cent lên 10,1-3/4 USD/bushel.

Giá gạo Thái Lan thấp nhất hơn 1 năm, Ấn Độ thấp nhất 8 tháng, Việt Nam giảm

Giá gạo Thái Lan giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 năm, do người đấu thầu buộc phải giảm giá trong phiên đấu giá gần đây do Indonesia tổ chức, cùng với đó giá xuất khẩu gạo Ấn Độ giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng.

Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 528-534 USD/tấn – thấp nhất kể từ giữa tháng 1/2024, giảm so với 535-540 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 567 USD/tấn, giảm so với 575 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống 550-565 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 20/7/2023, giảm so với 585 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Giá dầu cọ thấp nhất 3 tuần

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần, do dự kiến nước mua hàng đầu - Ấn Độ - tăng thuế nhập khẩu và giá dầu đậu tương và dầu cọ trên sàn Đại Liên suy yếu.

Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Bursa Malaysia giảm 53 ringgit tương đương 1,36% xuống 3.848 ringgit (888,07 USD)/tấn.

Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 13/9



 Công ty CP Đầu tư Thương mại và Xuất nhập khẩu Nhật Linh – Nhat Linh Investment., JSC
 Địa chỉ: Tầng 3, Toà nhà Thái Lâm Plaza, Số 52 Đường Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội
 Hotline: 0243.206.3010
 Zalo Group: https://zalo.me/g/andkkf940
 Fanpage: https://www.facebook.com/NhatLinh.Investments
0 / 5 (0Bình chọn)
BÀI VIẾT LIÊN QUAN:

Bạn cần hỗ trợ?